Dưới đây là lời khuyên của một người thầy, một
người cha dành cho các bạn trẻ khi chọn lựa nghề nghiệp cho mình.
LTS: Chọn nghề sai là
một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng học rồi thất nghiệp,
làm việc không hiệu quả kéo theo các tiêu cực, tệ nạn.
Vậy nhưng hiện nay không ít
học sinh lại hết sức mơ hồ trong việc chọn nghề nghiệp bởi việc định hướng nghề
nghiệp của Nhà trường chưa thực sự được chú trọng, vẫn còn nhiều bậc phụ huynh
muốn con học theo ngành mà cha mẹ muốn.
Trong bài viết này, thầy giáo Đỗ Tấn Ngọc – vừa là một người thầy, vừa
là một người cha, tác giả đưa ra quan điểm của mình về hoạt động hướng nghiệp
hiện nay. Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Theo văn bản hướng dẫn thực hiện của Bộ GD&ĐT, hoạt động nghề phổ
thông nhằm giáo dục cho học sinh hiểu, có ý thức, thái độ, kỹ năng cơ bản
về nghề nghiệp.
Từ đó tạo cho học sinh hứng thú, có kỹ năng thực hành để làm ra sản phẩm, biết
vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn...
Ở chương trình bậc THCS, nghề phổ thông là môn học tự chọn, học sinh nào tham
gia học và có chứng chỉ nghề phổ thông (do Sở GD&ĐT cấp) thì được cộng điểm
khuyến khích từ 0,5 đến 1,5 trong kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10.
Ở chương trình bậc THPT, nghề phổ thông là môn học bắt buộc, với thời lượng 105
tiết. Kết quả học môn nghề là điều kiện để đánh giá, xếp loại hạnh kiểm học
sinh (trong năm học nghề), có chứng chỉ nghề phổ thông thì được cộng điểm
khuyến khích từ 1-2 điểm khi xét công nhận tốt nghiệp THPT.
Ngoài ra ở chương trình bậc THPT còn có hoạt động hướng nghiệp, năm 2006 (năm
đầu tiên thực hiện chương trình phân ban) theo quy định của Bộ GD & ĐT mỗi khối,
lớp có 27 tiết/ năm nhưng từ năm 2008 cắt giảm xuống 1/3 thời lượng, chỉ
còn 9 tiết/năm.
Đến nay, nhiều nhà trường, thầy cô giáo cũng không
biết lý do vì sao Bộ GD & ĐT lại cắt giảm số tiết của hoạt động hướng
nghiệp.
Mục tiêu của hoạt động này là cung cấp cho người học những kiến thức, hiểu biết
cơ bản về nghề nghiệp từ đó biết lựa chọn, định hướng nghề phù hợp sau khi học
xong bậc THPT.
Có thể nói, đối với học sinh, hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông
trong chương trình phổ thông lâu nay, là rất quan trọng, cần thiết, bởi vì nó
đặt nền móng, định hướng tốt cho các em lựa chọn công việc, nghề nghiệp trong
tương lai.
Thế nhưng, hiệu quả, chất lượng của hai hoạt động này ở nhà trường phổ thông
rất đáng lo ngại. Đa phần, học sinh có học nghề, có chứng chỉ nghề nhưng lại
không vận dụng, làm được gì trong thực tế đời sống.
Phần nhiều, các tiết hướng nghiệp diễn ra sơ sài, hình thức, học sinh vẫn lơ
mơ, lệch lạc khi nói đến chuyện ngành, nghề. Vậy nguyên nhân từ đâu?
Hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông được sản sinh trong hoàn cảnh
nguồn lực giáo viên không được đào tạo, bồi dưỡng và không có giáo trình, tài
liệu hướng nghiệp.
Giáo viên phải làm công việc kiêm nhiệm, bất đắc dĩ, biết gì dạy đó, chủ yếu
đọc lý thuyết và giữ lớp cho hết thời gian để khỏi bị Ban giám hiệu nhà trường
nhắc nhở phê bình.
Có nhiều Hiệu trưởng đã từng “phát hoảng” khi ngồi
dự một tiết hướng nghiệp của giáo viên. Còn học sinh thì chán ngán, quay sang
nói chuyện riêng với bạn bè.
Nghề phổ thông thì có vô số nghề, nhu cầu của học sinh cũng rất đa dạng nhưng
hầu hết các trường phổ thông chỉ đáp ứng được vài ba nghề như nghề tin học (nhờ
có giáo viên dạy tin học), nghề điện dân dụng (nhờ có giáo viên dạy vật lý-
công nghệ), nghề bảo vệ thực vật (nhờ có giáo viên dạy sinh học).
Do đó, học sinh có muốn học nghề khác cũng đành chịu vì nhà trường không thể
đáp ứng.
Cơ sở vật chất, kinh phí của các cơ sở giáo dục lâu nay luôn trong tình trạng
thiếu thốn, eo hẹp. Cấp trên giao tự chủ về kinh phí dựa trên số lượng học
sinh, giáo viên và loại trường.
Trên 80% kinh phí được chi trả cho lương và các khoản thường xuyên khác. Phần
ít ỏi còn lại chi cho các hoạt động khác, trong trạng thái hết sức tiết
kiệm.
Hàng năm, hầu hết các trường không có kinh phí để bồi dưỡng, trang trải, mua
sắm thiết bị, phương tiện cần thiết cho hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề phổ
thông.
Nghề Tin học thì dựa vào phòng máy thực hành môn tin học. Nghề điện dân dụng
thì dựa vào những dụng cụ, thiết bị cũ kỹ của phòng thí nghiệm thực hành môn
Vật lý.
Tình trạng dạy chay, học chay là phổ biến. Việc
quan trọng của hướng nghiệp là đưa học sinh đi tham quan, trải nghiệm các
công ty, xí nghiệp càng trở nên xa xỉ, xa vời trong điều kiện kinh phí khó
khăn.
Bởi nhà trường và các công ty, xí nghiệp hoàn toàn đứng biệt lập, không có mối
quan hệ gì với nhau.
Từ những cái khó về con người đến vật chất, kinh phí, hoạt động hướng nghiệp và
dạy nghề phổ thông lâu nay chỉ tồn tại trên danh nghĩa, làm cho lấy có, thầy cô
giáo và học sinh cũng chẳng mặn mà gì.
Riêng hệ thống các trường trung cấp, cao đẳng, cao đẳng nghề trong cả nước đã
đào tạo hàng trăm ngành học với hàng chục ngành chuyên ngành nhưng hiện có mấy
nhà trường, giáo viên quan tâm, đầu tư, có số liệu, nắm được sự đa dạng
về ngành nghề để định hướng cho các em? Bởi thực tế học sinh hiểu về nghề
nghiệp hết sức nông cạn, sai lệch.
Mặt khác, việc hướng nghiệp và học nghề của học sinh còn chịu tác động, định
hướng nhiều nhất từ chính gia đình.
Trong khi, chưa nhiều phụ huynh nắm bắt rõ về thế giới nghề nghiệp, nhu cầu xã
hội và nguy hiểm nhất là họ không hiểu hoặc “bỏ qua” khả năng, sở trường của
con.
Nên dẫn đến tình trạng, cha mẹ “đam mê” một ngành nào đó thay con mình. Có thể
vì thấy con em người quen, hàng xóm thành đạt thì cũng muốn con mình
giống người ta.
Rồi chọn ngành, nghề vì quan hệ, có người quen làm trong lĩnh vực nào đó nên
kéo con theo học để sau này được nhờ vả…
Vẫn còn nhiều phụ huynh vẫn mang nặng tư tưởng ứng thí, thích con em mình làm
“thầy” thiên hạ, “ăn trắng mặc trơn”, “chốn công sở nhà nước”, kiếm tiền
nhiều như bác sĩ, kỹ sư…
Vì thế, mong mỏi con cái phải vào cánh cổng đại học luôn là mục tiêu lớn nhất
của phần lớn bậc phụ huynh nên họ coi thường, xem nhẹ việc học nghề.
Có người, con mình thi trượt đại học, đi học cao đẳng nghề, than thân trách
phận, buồn bã cả tháng trời…
Đây là những một hồi chuông đáng báo động cho thấy định hướng, lựa chọn sai
ngành nghề có thể đẩy các em đến “bi kịch” cả cuộc đời và góp phần gây nên
những hệ lụy cho xã hội như gia tăng thất nghiệp, làm việc không hiệu quả, nảy
sinh nhiều tệ nạn xã hội như hiện nay.
Đỗ Tấn Ngọc/ Báo giáo dục