CỘI NGUỒN CỦA TỪ “ÔNG XÃ, BÀ XÔ (老公,老婆)

Từ điển tiếng Việt năm 1992 giảng “ông xã(老公)” là từ dùng để gọi đùa và thân mật người chồng, còn “bà xã(老婆)” là từ dùng để gọi thân mật người vợ. Nhưng trên đây chỉ là cái nghĩa của mấy tiếng đó trong khẩu ngữ tiếng Việt hiện đại, vì nếu truy nguyên thì ông xã lại là người xã trưởng còn bà xã lại là vợ của người xã trưởng (cũng như bà lý là vợ của ông lý trưởng)
CỘI NGUỒN CỦA TỪ “ÔNG XÃ, BÀ XÔ (老公,老婆)

Từ điển tiếng Việt năm 1992 giảng “ông xã(老公)” là từ dùng để gọi đùa và thân mật người chồng, còn “bà xã(老婆)” là từ dùng để gọi thân mật người vợ. Nhưng trên đây chỉ là cái nghĩa của mấy tiếng đó trong khẩu ngữ tiếng Việt hiện đại, vì nếu truy nguyên thì ông xã lại là người xã trưởng còn bà xã lại là vợ của người xã trưởng (cũng như bà lý là vợ của ông lý trưởng)
Việt Nam tự điển của Lê Ngọc Trụ và Lê Văn Đức giảng rằng “xã” là “xã-trưởng gọi tắt” và cho ví dụ: ông xã, thầy xã. Còn “xã-trưởng” thì đã đươc quyển tự điển đó giảng như sau: Người đứng đầu hội đồng hương chính một xã ở Trung và Bắc-Việt – cũng gọi thôn trưởng, một hương chức ban hội tề xưa ở Bắc-Việt, cũng như Hương-thân và Hương-hào làm ban Hương-chức đương-niên hành-sự. Riêng xã trưởng giữ mộc-kí của làng cùng những công-văn, hiểu-dụ của nhà nước và chuyên lo thâu thuế và nộp thuế cho nhà nước. Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên ghi và giảng “xã (…) người đàn ông trong làng có chút chức vị cao hơn người dân thường (cũ): “Bác xã”. Còn trong từ điển 1992 thì: “Xã (…) chức vị ở làng xã thời phong kiến, có thể bỏ tiền ra mua, lớn hơn nhiều.”

Tóm lai, xã là một chức dịch trong làng, xã thời trước và trong các cấu trúc ông xã, thầy xã, bác xã, cụ xã, thậm chí thằng xã (thí dụ: thằng xã X. là một tên gian tham)… thì xã là danh từ chỉ tổng loại làm phần phụ thê nghĩa cho phần chính đứng trước nó là danh từ cá thể ông, thầy, bác, cụ, thằng, v.v… Trong các cấu trúc trên thì ông xã vừa trung hòa về thái độ và tình cảm, vừa thích hợp với tuyệt địa đa số các trường hợp cần xưng hô cho nên thông dụng và phổ biến hơn các cấu trúc còn lại mà dễ trở thành một tổ cố định để đi vào vốn từ vựng chung như đã thấy hiện nay.

Ông xã nhà tôi, ông xã nhà em, v.v… là những cách gọi mà nhưng bà vợ của các ông xã thường dùng để chỉ chồng mình khi nói chuyện với người khác, giống như những bà vợ của các ông lý thường gọi chồng mình là ông lý nhà tôi, ông lý nhà em, v.v… Đó là nhưng lối nói rất phổ biến và có tần suất xuất hiện cao trong lời ăn tiếng nói ở nông thôn Việt Nam trước đây. Một số bà ở Hà Nội và các thành phố lớn phía Bắc (Hải Phòng, Nam Định) – lối nói này xuất phát ỏ phía Bắc – có lẽ đã mượn cách nói này để chỉ chồng mình một cách thân mật. Đến khi hai nhân vật Lý Toét và Xã Xệ xuất hiện trên mặt báo ở Hà Nội thì hình ảnh của ông lý, ông xã cung bị ảnh hưởng mang thêm tính hài hước và lối nói ông xã nhà tôi, ông xã nhà em của một số bà ngoài tính chất thân mật còn mang thêm sắc thái đùa cợt. Khi lối nói này dần dần phổ biến thì nó cũng không còn là riêng của các bà để chỉ các ông nữa mà nó đã trở thành một lối nói chung của mọi người vì ai cũng có thể dùng hai tiếng ông xã dể chỉ chồng của một người đàn bà. Và khi ông xã đã là chồng thì đổi lại, bà xã phải là vợ.

Lối nói trên đây, theo chúng tôi là phát sinh ở miền Bắc, rồi về sau (từ năm 1954?) mới du nhập vào Nam chư không phải là lối nói riêng của phương ngữ Nam Bộ.

Gia sư - học viên

Lớp cần gia sư

Thông tin cần biết

Club Tiếng trung Hoa Văn

Báo giá dịch thuật

Bảng tin

Câu chuyện giáo dục

Du học

Tài Liệu Tiếng Trung

Chuyên đề thi cử

Liên kết gia sư Hoa Văn

Hỗ trợ trực tuyến

Thống kê truy cập